khi nghiên cứu về tội phạm thì

Vì thế, lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự cho rằng, người phạm tội ăn năn, nộp lại tài sản thì khi xét xử được xem xét giảm hình phạt là cần thiết. "Nhiều quốc gia đã áp dụng việc này. Chúng tôi đã giao các đơn vị chuyên môn học tập kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam sao cho khoa học nhất. Chúng ta chỉ có thể rút ra những tính chất này sau khi đã có sự nghiên cứu về cơ cấu của tình hình tội phạm. Nghiên cứu cơ cấu tội phạm theo những tiêu chí càng đa dạng càng giúp làm định hình rõ nét tính chất của tình hình phạm tội. III. Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự 2015 như sau: đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 2. Khi nghiên cứu về vi phạm pháp luật thì khẳng định nào sau đây là đúng? A. Mọi hành vi trái pháp luật đều xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ BTP và UNICEF (2019), Báo cáo nghiên cứu pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hoà nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam Site De Rencontre De Femme Gratuit Somme 80. Tuy không giữ vai trò định hướng toàn bộ quá trình nghiên cứu như phương pháp luận, nhưng các phương pháp nghiên cứu có vai trò quan trọng trong việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin để đưa ra các kết quả nghiên cứu. Độ tin cậy và giá trị khoa học của các kết quả nghiên cứu có sự phụ thuộc vào việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ đề đặt ra là cần sử dụng phương pháp nghiên cứu nào? Lịch sử nghiên cứu tội phạm học cho thấy các trường phái tội phạm học sử dụng các phương pháp nghiên cứu không giống nhau. Trong đó, có những phương pháp sinh học để tìm nguyên nhân phạm tội như, phương pháp nghiên cứu tình trạng thiếu hụt một số hóa chất và khoáng chất trong cơ thể con người, ảnh hưởng của hóc môn, gen và di truyền qua nghiên cứu nội tiết tố, nhiễm sắc thể giới tính bất thường XYY, cặp sinh đôi và cũng có những phương pháp y học như đo chức năng thần kinh, phương pháp thống kê,… Nguyên tắc chung là phương pháp nghiên cứu được sử dụng phải phù hợp với tính chất của đối tượng, mục đích nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học Việt Nam là những hiện tượng có tính chất xã hội – pháp lý, do đó tội phạm học sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê hình sự, phương pháp nghiên cứu chọn lọc và các phương pháp nghiên cứu xã hội học. Mặt khác, để giúp cho quá trình xử lý thông tin được nhanh chóng, chính xác, tội phạm học có thể kết hợp sử dụng các phương pháp tính toán của toán học, kỹ thuật máy tính,… Những phương pháp này có mối quan hệ và hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một hệ thống các phương pháp nghiên cứu của tội phạm học. Phương pháp nghiên cứu cũng có mối quan hệ với phương pháp luận. “Nếu như phương pháp nghiên cứu của tội phạm học là cách thức áp dụng các biện pháp để tìm ra những thông số nhằm chứng minh cho một vấn đề, một luận điểm liên quan đến tội phạm, thì cơ sở nghiên cứu phương pháp luận là chỗ dựa, là nền tảng cho việc áp dụng các phương pháp để tìm ra các thông số đó”. Như vậy, phương pháp nghiên cứu của tội phạm học Việt Nam là hệ thống các cách thức, biện pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thu thập, phân tích và xử lý thông tin về những vấn đề cần nghiên cứu. 1. Phương pháp thống kê hình sự Là phương pháp thu thập thông tin tội phạm bằng kỹ thuật và quy định về thống kê. Thống kê là phương pháp nghiên cứu quan trọng được nhiều ngành khoa học sử dụng, trong đó có các khoa học xã hội như xã hội học, kinh tế học,.. Trong chuyên môn tội phạm học đối tượng thống kê chủ yếu là tội phạm, người phạm tội, thiệt hại… gọi chung là thống kê hình sự. Đối với tội phạm học, quá trình nghiên cứu tình hình tội phạm cần dựa vào các số liệu thống kê. Hai học giả Adophe Quételet 1796 – 1874, nhà toán học Bỉ và André Michen Guerry 1802 – 1866, luật sư Pháp, là hai người tiên phong sử dụng phương pháp thống kê nghiên cứu sự phụ thuộc giữa con số thống kê tội phạm với các nhân tố như nghèo khổ, lứa tuổi, giới tính, khí hậu. Từ đó kết luận rằng xã hội chứ không phải quyết định cá nhân của người phạm tội là nguyên nhân của hành vi phạm tội”. Ở Việt Nam, việc thống kế hình sự được tiến hành theo quy định pháp luật, do các cơ quan chức năng Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện hoặc thống kê theo các mục đích riêng của các nhà nghiên cứu. Ở góc độ khoa học, phương pháp thống kê hình sự giải quyết một số nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như Thứ nhất, mô tả tình hình tội phạm bằng con số thống kê. Số liệu thống kê phản ánh phần lớn số liệu tội phạm và người phạm tội đã bị phát hiện, xử lí số tuyệt đối. Do vậy, thông qua phương pháp thống kê có thể tiếp cận một phần bức tranh về tình hình tội phạm chỉ mô tả được phần tội phạm hiện. Việc mô tả tình hình tội phạm bằng số liệu thống kê còn được thể hiện qua số con tương đối trong các trường hợp sau – Xác định hệ số cơ số tình hình tội phạm khi lấy tổng số tội phạm được thống kê chia cho tổng số dân rồi nhân với 10 000 hoặc 100 000. – Xác định tỷ trọng tội phạm hoặc loại tội phạm. Đó là tương quan giữa tội phạm hoặc loại tội phạm trên tổng số tội phạm được thống kê. – Xác định chỉ số trung bình, là lấy tổng số tội phạm được thống kê chia cho số các trường hợp. Ví dụ, lấy tổng số tội phạm được thống kê trong 5 năm chia cho 5 để biết số tội phạm trung bình của một năm. Hình minh họa. Các phương pháp nghiên cứu của tội phạm học Thứ hai, giải thích về tình hình tội phạm. So sánh số liệu thống kê tình hình tội phạm với các số liệu thống kê các hiện tượng xã hội khác dân số, việc làm, thu nhập, học vấn,…, từ đó cho thấy mối quan hệ và sự phụ thuộc giữa tình hình tội phạm với các hiện xã hội, có thể là nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm. Thứ ba, dự báo tội phạm. Phương pháp thống kê cũng được sử dụng để dự báo tội phạm. Nếu số liệu thống kê tội phạm đầy đủ, trong một giai đoạn dài cần thiết sẽ phản ánh xu hướng của tình hình tội phạm trong tương lai. Nếu chọn một thời điểm tương ứng với con số cụ thể được thống kê làm mốc quy ước 100%, những thời điểm tiếp theo có thể suy ra tỷ lệ trên hoặc dưới 100% nếu so sánh với thời điểm được chọn làm mốc, có nghĩa là diễn biến tội phạm có xu hướng tăng hay giảm. Thứ tư, đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm và tổ chức hoạt động phòng ngừa tội phạm. Thông qua số liệu thống kê hình sự và những thay đổi của nó có thể đánh giá mức độ tăng, giảm tội phạm và suy ra hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Cũng từ những số liệu thống kê định ra các hướng phòng ngừa tội phạm loại tội phạm nào? Xảy ra ở đâu?,…. Các bước thực hiện phương pháp thống kê Bước thứ nhất, thu thập số liệu thống kê. Số liệu thống kê tội phạm hiện nay chủ yếu được thu thập từ kết quả thống kế của các cơ quan chức năng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Mục đích của thống kê hình sự, ngoài việc đánh giá chính xác, khách quan tình hình vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm, còn nhằm từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án hình sự phục vụ công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm”. Bước thứ hai, tổng hợp và phân loại số liệu thống kê. Số liệu thống kê sau khi đã thu thập, nhà nghiên cứu tiến hành tổng hợp cộng, nhóm, xử lý các số liệu theo thời gian, địa bàn,… và phân loại theo mục đích nghiên cứu hướng đến tìm hiểu loại tội phạm, mức hình phạt, nhân thân,…. Bước thứ ba, phân tích, đánh giá số liệu thống kê. Đây là bước mà nhà nghiên cứu có thể đưa ra các kết luận về tình hình tội phạm, nguyên nhân của tội phạm, xu hướng của tội phạm trên cơ sở số liệu thống kê đã được thu thập, xử lý. 2. Phương pháp nghiên cứu chọn lọc Là phương pháp nghiên cứu toàn bộ hiện tượng thông qua một bộ phận điển hình của nó. Kết quả nghiên cứu bộ phận được sử dụng để đánh giá chung cho toàn bộ hiện tượng cần nghiên cứu. Phương pháp này còn được gọi là phương pháp điều tra điển hình. Sở dĩ phương pháp này thường được sử dụng trong tội phạm học là do tính chất rộng lớn của đối tượng nghiên cứu có khi lên đến hàng trăm nghìn trường hợp, hơn nữa không phải nội dung nghiên cứu nào cũng được thống kê, do đó phải sử dụng thông tin từ nghiên cứu chọn lọc. Ví dụ, phân tích 2 175 vụ cướp, cưỡng đoạt cho thấy ban ngày xảy ra 370 vụ 17%, từ 19h – 22h 1320 vụ 60,7%, 23h – 5h 485 vụ 22,3%. Kết quả khảo sát này của 2 175 vụ phản ánh đặc điểm chung về thời gian xảy ra án cướp, cưỡng đoạt tài sản thay vì phải khảo sát tất cả những vụ án đã xảy ra trên thực tế. Ưu điểm của phương pháp là tiết kiệm thời gian, công sức nghiên cứu và có thể phản ánh gần đúng sự thật. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nó là khả năng sai số do chỉ nghiên cứu một bộ phận của toàn thể đối tượng cần nghiên cứu. Nếu chọn mẫu nghiên cứu với con số lớn và tính điển hình cao sẽ cho sai số thấp hơn và ngược lại. Tội phạm học có đưa ra bảng quy tắc sai số để giúp cho quá trình chọn số lượng mẫu nghiên cứu và đánh giá mức độ tin cậy của kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nghiên cứu chọn lọc”. 3. Các phương pháp nghiên cứu xã hội học Phương pháp phiếu điều tra Là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu điều tra, có ghi sẵn nội dung các câu hỏi. Đây là phương pháp nghiên cứu xã hội học thường được tội phạm học sử dụng. Không phải thông tin nào cũng có thể thu thập bằng phương pháp thống kê, như ý thức pháp luật, lí do phạm tội, tình trạng và lý do ẩn của tội phạm, dư luận xã hội về tình hình tội phạm và hiệu quả phòng ngừa tội phạm,… Tuy nhiên, đây lại là những nguồn thông tin mà phương pháp pháp phiếu điều tra có thể thu thập được. Yêu cầu quan trọng nhất của phương pháp này là kỹ thuật đặt câu hỏi trong bảng câu hỏi phiếu để thăm dò ý kiến của người được hỏi. Các câu hỏi phải dễ hiểu, đúng trọng tâm nghiên cứu, hướng dẫn tâm lý của người được hỏi một cách tự nhiên khi lần lượt trả lời các câu hỏi. Kỹ thuật thiết kế câu hỏi gồm các dạng câu hỏi đóng một phương án trả lời, câu hỏi mở nhiều phương án trả lời, tự do trình bày quan điểm, câu hỏi kết hợp đóng – mở. Vấn đề quan trọng thứ hai là chọn mẫu để điều tra sao cho kết quả thu thập được có tính đại diện, đáng tin cậy. Hạn chế của phương pháp này là người hỏi không kiểm soát được thái độ của người trả lời phiếu điều tra ví dụ, người trả lời không hiểu vấn đề, không nhiệt tình trả lời hoặc trả lời thiếu trách nhiệm, trả lời thay,…. Phiếu điều tra là một dạng phương pháp nghiên cứu chọn lọc, do đó số lượng mẫu điều tra càng lớn thì xác suất đúng càng cao. Phương pháp phỏng vấn đối thoại Là phương pháp thu thập thông tin bằng cách hỏi – đáp trực tiếp. Nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra cho phương pháp phỏng vấn cũng giống như phương pháp phiếu điều tra, nhưng chỉ khác phương thức thực hiện hỏi – trả lời trực tiếp, thay vì qua phiếu điều tra. Ưu điểm của phương pháp này là người nghiên cứu kiểm soát được thái độ của người trả lời. Tuy nhiên, tùy vào nội dung, mục đích và đối tượng phỏng vấn để lựa chọn hình thức phỏng vấn sao cho phù hợp với diễn biến tâm lý của người được hỏi. Để có kết quả phỏng vấn tốt, phù hợp yêu cầu nghiên cứu, cần chuẩn bị trước nội dung các câu hỏi. Phương pháp quan sát Là phương pháp thu thập thông tin qua quan sát bằng mắt. Quan sát cũng có thể thu thập thông tin bề ngoài của đối tượng cần quan sát, từ đó đoán được diễn biến tâm lý bên trong. Nhiệm vụ của phương pháp này trong Tội phạm học là nghiên cứu tình trạng sức khỏe, hình thái, tâm lý, thái độ của người phạm tội. – Các loại quan sát quan sát tự nhiên, quan sát trong môi trường nhân tạo, tham gia vào hoạt động quan sát. Yêu cầu của phương pháp quan sát phải có chủ đích – có ghi chép các kết quả quan sát, quan sát không xâm phạm vào tự do riêng tư của người bị quan sát. Phương pháp thực nghiệm Là phương pháp nghiên cứu bằng cách tạo ra hoặc thay đổi các điều kiện để kiểm tra kết quả nghiên cứu. Trong Tội phạm học sử dụng chủ yếu là phương pháp thực nghiệm xã hội như thay đổi điều kiện giáo dục, thay đổi điều kiện, phương tiện phát hiện tội phạm,… để khẳng định có hay không sự phụ thuộc giữa đối tượng nghiên cứu và điều kiện hoàn cảnh đưa ra thực nghiệm. Nhiệm vụ của phương pháp này chủ yếu kiểm tra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội liên quan đến hoàn cảnh giáo dục, khả năng phát hiện tội phạm, hiệu quả áp dụng các biện pháp cải tạo để phòng ngừa tội phạm. Vấn đề cần lưu ý của phương pháp này là không được làm xấu hơn tình trạng của đối tượng thực nghiệm. Phương pháp chuyên gia Là phương pháp tham khảo ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về lĩnh vực cần nghiên cứu. Nếu như thế mạnh của phương pháp thống kê là có khả năng định lượng số tội phạm, người phạm tội với con số lớn thì thế mạnh của phương pháp chuyên gia là có khả năng làm sáng tỏ mặt định tính của tình hình tội phạm một cách sâu sắc. Phương pháp chuyên gia có thể được sử dụng hiệu quả trong điều kiện thiếu thông tin tội phạm, điều kiện kinh tế xã hội thay đổi nhanh chóng. Phương pháp chuyên gia được thực hiện theo các bước Thứ nhất, nhóm nghiên cứu thu thập, cung cấp thông tin, đề nghị yêu cầu đánh giá; thứ hai, thành lập nhóm chuyên gia và tổ chức cho chuyên gia làm việc, đưa ra ý kiến; thứ ba, nhóm nghiên cứu tổng hợp, xử lý ý kiến các chuyên gia để đưa ra kết quả nghiên cứu. Hình thức thực hiện có thể tổ chức cho các chuyên gia làm việc cá nhân hoặc làm việc tập thể hội thảo, tọa đàm. Phương pháp so sánh các nguồn tài liệu Là phương pháp so sánh các nguồn tài liệu ở các lĩnh vực có liên quan đến tình hình tội phạm để tìm mối quan hệ và sự phụ thuộc giữa tình hình tội phạm với các hiện tượng xã hội khác. Ví dụ, tài liệu phát hiện xử lý buôn lậu của hải quan, xử lý hàng giả của quản lý thị trường, tài liệu chi trả bảo hiểm do tội phạm gây ra của cơ quan bảo hiểm, tài liệu của các cơ quan y tế về điều trị thương tật, tai nạn do tội phạm gây ra,… – Các phương pháp toán học, máy tính không trực tiếp thu thập thông tin từ đối tượng nghiên cứu mà thường hỗ trợ quá trình xử lý thông tin, tài liệu được thu thập từ những phương pháp khác, như xử lý số liệu thống kê, phiếu điều tra... Trang chủ Đại Học Đại cương ADMICRO A. Tội phạm là một hiện tượng mang tính tự nhiên B. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử C. Tội phạm là một hiện tượng tồn tại vĩnh viễn D. Tội phạm là một hiện tượng mang tính bẩm sinh Hãy suy nghĩ và trả lời câu hỏi trước khi xem đáp án ANYMIND360 / 1 Câu hỏi này thuộc ngân hàng trắc nghiệm dưới đây, bấm vào Xem chi tiết để làm toàn bài ZUNIA12 ZUNIA9 ADMICRO TÀI LIỆU THAM KHẢO Download Xã hội học pháp luật Phân tích mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo yêu cầu and more Sociology of Law Thesis in PDF only on Docsity! BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI TIỂU LUẬN MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT Đề tài Phân tích mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý, giới tính và sự phân tầng xã hội, cho ví dụ cụ thể về tội phạm mua bán người Bài làm có ít nhất 5 điều luật của các văn bản pháp luật được trích dẫn. Họ và tên PHAN DIỆU LINH Ngày, tháng, năm sinh 22/10/2003 MSSV 460823 Lớp 4608 N15-TL1 Ngành Luật chung DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TAND Tòa án Nhân dân UBND Uỷ ban Nhân dân BLHS Bộ Luật hình sự MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................2 II. NỘI DUNG...........................................................................................................................................2 1. Mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý, giới tính và sự phân tầng xã hội.......2 Khái niệm chung về hiện tượng tội phạm....................................................................................2 Mô hình hiện tượng tội phạm theo khu vực địa lý......................................................................2 Mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo giới tính............................................................3 Mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo sự phân tầng xã hội..........................................4 2. Liên hệ phân tích mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người.......................................................4 Pháp luật hành quy định hành vi mua bán..................................................................................4 Mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người theo khu vực địa lý.............................................6 Mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người theo giới tính......................................................7 Mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người theo phân tầng xã hội........................................7 KẾT LUẬN...............................................................................................................................................8 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................9 1 tâm sinh lý của nam giới, họ là những người thuộc về “phái mạnh”, thường có xu hướng “hành động” hơn là “lời nói”. Nhiều khi những tình huống mâu thuẫn xảy ra, họ thường dùng hành động để giải quyết. Sự kiềm chế của nam giới cũng kém hơn phụ nữ nên khi bị kích động đến một giới hạn nhất định, nam giới rất có thể sẽ dễ dàng gây ra hành vi phạm tội. Ở một số khía cạnh khác, nam giới vì “cái tôi” bản thân quá cao nên cũng rất dễ bị chính những thứ gọi là “sĩ diện” đó chi phối hành vi. Hơn nữa, trong cuộc sống thường ngày, nam giới cũng là phái phải gánh trên vai trách nhiệm, là trụ cột của gia đình. Áp lực từ công việc, từ cuộc sống cũng là một phần nhân tố tác động đến hành vi phạm tội của họ. Đặc biệt, trong tội phạm cụ thể như tội hiếp dâm, vì đặc điểm sinh lý, nên người phạm tội chỉ có thể là nam giới phụ nữ chiếm rất ít, hầu như không đáng kể. Hay như tội bạo hành, ngược đãi thì người phạm tội cũng đa phần là nam giới. Mô hình nghiên cứu hiện tượng tội phạm theo sự phân tầng xã hội Đây mô hình nghiên cứu tượng tội phạm dựa theo phân tích cấu xã hội - giai cấp. Sự phân tầng xã hội cùng với qúa trình phân hóa giàu nghèo xã hội đưa tới hình thành nên giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, có mức sống và chất lượng sống khác Những điều kiện xã hội như sự nghèo khổ, bất ổn định về kinh tế, tình trạng nhà ở tồi tàn, định hướng giáo dục kém… dễ dẫn tới tội phạm hơn. Do đó, tầng lớp bình dân, người nghèo thường mắc phải tội phạm nhiều hơn vì họ phải đối đầu nhiều hơn với các hoàn cảnh kinh tế và xã hội gay go. Ngoài ra con em của họ có thể bị xã hội hóa nhiều hơn theo cung cách tiếp xúc với môi trường tội phạm trong quá trình xã hội hóa cá nhân, bởi do mải mê với công việc mưu sinh, người nghèo ít có điều kiện, công sức, tiền bạc dành cho việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục con em. 2. Liên hệ phân tích mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người Pháp luật hành quy định hành vi mua bán Mua bán người là việc mua bán, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người nhằm thu lợi nhuận bất hợp pháp từ việc bóc lộc các nạn nhân dưới nhiều hình thức khác nhau như bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy và buôn bán nội tạng... Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 2 Chủ biên Văn Nhân, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, NXb Tư pháp, 2018, tr 364, Hà Nội 4 Nam quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm thân thể, pháp luật bảo vệ sức khỏe, danh dự nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Do đó, thân thể, phận thể tài sản vô giá người, việc mua bán người, phận thể người bị pháp luật cấm. Tội phạm mua bán người đã được BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định tại Điều 150 Tội mua bán người, Điều 151 Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Điều 154 Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người. Cùng với các điều luật liên quan bao gồm quy định tại khoản a Điều 6 Luật đầu tư 61/2020/QH14 quy định “Mua, bán người, mô, xác, bộ phận thể người, bào thai người” ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và Điều 10 Luật phòng chống mua bán người về “Quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ”. Cùng với khoản 6 Điều 11 Luật Hiến, lấy, ghép mô, phận thể người hiến xác năm 2006 “Mua, bán mô, phận cơ thể người; mua, bán xác; Lấy, ghép, sử dụng, lưu giữ mô, bộ phận thể người mục đích thương mại” hành vi bị nghiêm cấm thực. Ngoài ra, hiến mô, bộ phận thể người là việc cá nhân tự nguyện hiến mô, bộ phận thể cơ thể sống sau khi chết. Đây là quyền công dân, cá nhân quy định Điều 35 Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác “Cá nhân có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến, lấy xác phải tuân thủ theo các điều kiện và được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật khác có liên quan.” Như vậy, pháp luật hành quy định nguyên tắc việc hiến, lấy, ghép mô, phận thể người hiến, lấy xác bao gồm Tự nguyện người hiến, người ghép; Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy nghiên cứu khoa học; Không nhằm mục đích thương mại; Giữ bí mật thông tin có liên quan đến người hiến, người ghép, trừ trường hợp bên có thỏa thuận khác pháp luật có quy định khác. 5 Mô hình nghiên cứu tội phạm mua bán người theo khu vực địa lý Nơi có số người bệnh chữa trị tại các bệnh viện uy tín lớn đặc biệt là ở Hà Nội, chính vì đó mà một số đối tượng đã lợi dụng, có hành vi mua bán bộ phận cơ thể người càng xuất hiện tràn lan, bất hợp pháp. Nguyên nhân sâu xa của vấn nạn mua bán bộ phận thể người cầu vượt cung nên ngành ghép tạng nước ta phải đối mặt với thực trạng thiếu trầm trọng nguồn phận thể để cấy ghép. Ví dụ Ngày 15/10, Phòng Cảnh sát hình sự Hà Nội đã khởi tố bị can với Trần Văn Phương 29 tuổi để điều tra về tội Mua bán mô và bộ phận cơ thể người, theo điều 154 BLHS 2015 sửa dổi, bổ sung 2017. Liên quan vụ án, cơ quan điều tra đang làm rõ hành vi của Lê Thùy Linh 22 tuổi, Bình Dương, Hoàng Ngọc Tiến 30 tuổi, Quảng Trị và Phan Văn Hùng 27 tuổi, Nghệ An. Theo điều tra của cảnh sát, nắm bắt được nhu cầu ghép thận của người bệnh, Phương đăng tin trên mạng xã hội về việc tìm người mua - bán thận. Khi có người liên lạc, Phương thu xếp để người bán và mua gặp nhau, đồng thời làm giả hồ sơ dưới dạng tự nguyện hiến tặng cho nhau. Phương làm môi giới, giao dịch giá mua từ 250 triệu đồng đến 320 triệu, song "báo giá" với người cần ghép thận là 340-360 triệu đồng để hưởng chênh lệch. Với mật độ dân số cao, việc đối tượng tìm kiếm nạn nhân để thực hành vi mua bán phận thể người dễ dàng so với khu vực nông thôn. Đô thị hay thành phố lớn nơi người từ nhiều nơi tập trung để sinh sống, làm việc học tập phân tích lối sống thị thường mang tính dửng dưng, xã giao, thiếu tình người, thiếu tính cố kết cộng đồng. Ngược lại nông thôn, việc đối tượng xuất thực hành vi phạm tội cụ thể mua bán phận thể người dễ bị phát hiện, thị nơi thích hợp cho đối tượng mua bán phận thể người có nguồn cung lớn, mối giao dịch rộng kiểm sốt xã hội thị nhìn chung lỏng lẻo. Những năm gần đây, nông thôn trở thành điểm nóng tội phạm mua bán phận thể người. Những người dân nông thôn thường hạn chế kiến thức tầm hiểu biết. Cùng với quá trình đô thị hóa, nhiều nơi người dân bị thu hồi đất nông nghiệp, hưởng khoản đền bù lớn lại không biết đầu tư vào làm ăn quay vòng; sau thời gian tiêu xài, mua sắm cho thân, gia đình số tiền hết, họ trở lại với hai bàn tay trắng, không có đất canh tác và nghề nghiệp. Việc khiến họ dễ dàng rơi vào đường dây mua bán phận thể người, trờ thành người bán sau dụ dỗ gia đình bạn bè, thành người mua, cung cấp trái phép nhằm mục đích sinh lời. 6 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Gíao trình 1. Chủ biên Văn Nhân, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, NXb Tư pháp, 2018, Hà Nội. Bộ luật tham khảo 1. Bộ luật Dân năm 2015 sửa đổi bổ, sung năm 2017. 2. Bộ luật Hình năm 2015 sửa đổi bổ, sung năm 2017. 3. Luật Đầu tư 2020. 4. Luật phòng chống mua bán người 2011. 5. Luật hiến lấy ghép mô phận thể người hiến lấy xác 2006. 6. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Link tham khảo 1. Mua bán nội tạng tại Hà Nội Hưởng chênh lệch 100 triệu/quả thận, theo VnExpress, Báo tiền phong, 15/10/2018. 2. Đồng Nai bắt đối tượng cầm đầu đường dây mua bán người qua Campuchia, Nguyễn Văn Việt TTXVN/Vietnam+, 4/1/2022. campuchia/ 3. Thảm cảnh từ nạn buôn người qua biên giới, Cổng thông tin hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, 11/9/2011 theo vietbao. 9 Khi nghiên cứu về tội phạm thì A. Tội phạm là một hiện tượng mang tính tự nhiên B. Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử C. Tội phạm là một hiện tượng tồn tại vĩnh viễn D. Tội phạm là một hiện tượng mang tính bẩm sinh Hướng dẫn Chọn B là đáp án đúng Nghiên cứu tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong tội phạm học. Bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau, cho ta thấy “bức tranh toàn cảnh” về tội phạm đã xảy ra. Nghiên cứu tình hình tội phạm là nghiên cứu thực trạng và diễn biến của tội phạm, đó là "bức tranh" toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. Để có được “bức tranh” như vậy, đòi hỏi việc nghiên cứu tình hình tội phạm phải thực hiện các nội dung nghiên cứu cụ thể và cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với các nội dung nghiên cứu cụ thể Ý nghĩa của nghiên cứu tình hình tội phạm Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh" toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm định lượng tổng số tội phạm cũng như tổng số người phạm tội - con số phản ánh mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra mà còn thể hiện cả đặc điểm định tính các cơ cấu bên trong của tội phạm và của người phạm tội mà những cơ cấu này phản ánh tính chất nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra. “Bức tranh” toàn cảnh về tội phạm đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội phạm đã xảy ra mà còn thể hiện cả diễn biến tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như về tính chất của tình trạng này. Nghiên cứu tình hình tội phạm không chỉ dừng lại ở mô tả “bức tranh tội phạm” mà đòi hỏi còn phải phân tích “bức tranh”, so sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra - nghiêm trọng về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất. Mô tả và phân tích “bức tranh tội phạm” trong nghiên cứu tình hình tội phạm không phải chỉ để “biết” những gì đã xảy ra mà quan trọng hơn là để giải thích, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm. 2. Phương pháp nghiên cứu tình hình phạm tội Nghiên cứu tình hình tội phạm với mục đích để đánh giá, phát hiện nguyên nhân, để dự liệu tội phạm sẽ xảy ra như thế nào trong thời gian tới là dạng nghiên cứu mô tả trong nghiên cứu thực nghiệm. Đó là quá trình gồm hai bước -Bước thu thập dữ liệu thực tiễn phản ánh nội dung định lượng và nội dung định tính của thực trạng và diễn biến cùa tội phạm trong đơn vị không gian và thời gian xác định. Đó là dữ liệu về số lượng tội phạm và người phạm tội, dữ liệu về các cơ cấu của tội phạm mà qua đó phản ánh được tính chất của tội phạm trong thời gian tổng thể và trong từng năm. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tìm kiếm luận cứ thực tế. -Bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được để kiểm chứng các giả thuyết mô tả tình hình tội phạm và đi đến các nhận định về thực trạng và diễn biến của tội phạm được nghiên cứu. Bước này đòi hỏi phải có phương pháp tổ chức chứng minh luận điểm khoa Về bước thứ nhất Đây là bước quan trọng, tạo cơ sở cho bước thứ hai. Trong bước thu thập dữ liệu này, với các đòi hỏi của yêu câu mô tả thì các phương pháp tiếp cận cần phải được lựa chọn là tiếp cận định lượng, tiếp cận tổng thể và tiếp cận bộ phận. Để có thể tiếp cận bộ phận đúng đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng đúng các phương pháp chọn mẫu. Trong đó, các phương pháp chọn mẫu thường được lựa chọn là chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản hoặc chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Phương pháp thu thập dữ liệu thường được ưu tiên sử dụng trong thực tế là phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu. Trước hết là các dữ liệu có trong thống kê tội phạm của các cơ quan tư pháp trung ương và địa phương công an, viện kiểm sát và toà án. Việc thu thập các dữ liệu thống kê tội phạm có sẵn này cần được tận dụng tối đa. Tuy nhiên, các thống kê tội phạm có sẵn này đều có giới hạn mà không thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu của người nghiên cứu. Do vậy, người nghiên cứu bên cạnh việc sử dụng dữ liệu đã có sẵn trong thống kê vẫn cần phải tự thu thập các dữ liệu khác qua việc phân tích các dữ liệu có trong các bản án hình sự. Đây cũng là dạng đặc thù của phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu. Nội dung các dữ liệu thu thập theo kiểu này được người nghiên cứu đặt ra để đảm bảo phục vụ mục đích nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, người nghiên cứu không thể nghiên cứu toàn bộ các bản án thuộc phạm vi nghiên cứu của mình. Ở đây, người nghiên cứu không thể chọn cách tiếp cận tổng thể mà phải chọn cách tiếp cận bộ phận, vấn đề được đặt ra là chọn bộ phận nào? Với số lượng bao nhiêu? Người nghiên cứu không thể tuỳ tiện chọn mà phải tuân theo các nguyên tắc chọn mẫu để đảm bảo tính đại diện. Cùng với phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu trên, người nghiên cứu còn có thể sử dụng một số phương pháp khác để thu thập dữ liệu như phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điều tra tự Về bước thứ hai Đây là bước xử lí các dữ liệu đã thu thập được. Đối với các dữ liệu dưới dạng số liệu phục vụ mô tả đặc điểm định lượng của tội phạm thực trạng của tội phạm xét về mức độ cũng như diễn biến của tội phạm xét về mức độ thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp thống với các dữ liệu phục vụ mô tả đặc điểm định tính của tội phạm thực trạng của tội phạm xét về tính chất cũng như diễn biến của tội phạm xét về tính chất thì việc xử lí được thực hiện với phương pháp logic để có được các kết luận về tính chất cũng như diễn biến về tính chất của tội phạm được nghiên là hai phương pháp xử lí dữ liệu cùng được sử dụng khi nghiên cứu tình hình tội phạm. Xử lí các dữ liệu để đi đến các nhận định về tình hình tội phạm đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng các phương pháp kiểm chứng giả thuyết. Thông thường phương pháp kiểm chứng được sử dụng là phương pháp chứng minh giả thuyết. Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH EverestBài viết trong lĩnh vực hình sự nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail [email protected].

khi nghiên cứu về tội phạm thì